Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của đạo đức chính là nền tảng tinh thần, giúp cho cán bộ, đảng viên luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng: “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, không rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình”; “Khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; lo hoàn thành cho tốt, chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. Người dẫn chứng, “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng là bởi vì nó liên quan trực tiếp tới khả năng và quyết định hiệu quả “gánh vác” công việc của Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên không tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa bản chất con người. Vì thế, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: muốn làm cách mạng, trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, có đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và đối với dân tộc, luôn phải kiên quyết đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng”. Đây không chỉ là yêu cầu về phẩm chất, năng lực mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc trong chỉ đạo nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên.
Để mỗi cán bộ, đảng viên thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần có sự tu dưỡng, rèn luyện nghiêm túc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Mặc dù coi đạo đức là gốc, chiếm vị trí hàng đầu trong thang giá trị nhân cách người cách mạng nhưng Hồ Chí Minh luôn đặt “đạo đức” trong mối quan hệ biện chứng với tài năng. “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”; “Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”. Và chỉ khi kết hợp cả phẩm chất và năng lực, đức và tài, cán bộ, đảng viên mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự mình rèn luyện để có phẩm chất đạo đức cao quý của người cộng sản: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng nhân đạo. Suốt đời, Người đã không ngừng tự tu dưỡng, tự rèn luyện mình về đạo đức, trở thành hình ảnh mẫu mực về “người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân”, chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc, mà còn ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.
Cùng với tự thân rèn luyện, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Tùy theo từng thời kỳ, Người đã đề ra những yêu cầu đạo đức cụ thể để mọi người phấn đấu rèn luyện, góp phần hoàn thành nhiệm vụ, mang lại những thắng lợi to lớn cho cách mạng.
Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên được Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Thấm nhuần tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta ở mọi thời kỳ cách mạng đều coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng trong Đảng và từng cán bộ, đảng viên tự rèn luyện để trở thành người cách mạng chân chính. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước.
Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Tuy nhiên, thực tiễn đổi mới cũng bộc lộ những khó khăn, thách thức. Đảng ta đã xác định bốn nguy cơ lớn, trong đó có nguy cơ tham nhũng, tức là sự suy thoái về đạo đức cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ nhận định đó, Đại hội XII của Đảng đã đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra chín biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và nhấn mạnh đó là “một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng về đạo đức là một trong những trụ cột của công tác xây dựng Đảng nói chung, có mối liên hệ biện chứng với các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Theo đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”.
Có thể khẳng định, cho đến nay, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vẫn luôn là cơ sở, chỉ dẫn quý giá để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói riêng và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung.
Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Thảnh - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy